TS. Nguyễn Hữu Dũng: Mở rộng kinh tế phi nông nghiệp để cải thiện sinh kế nông thôn
17/10/2022 2022-10-17 8:16TS. Nguyễn Hữu Dũng: Mở rộng kinh tế phi nông nghiệp để cải thiện sinh kế nông thôn
TS. Nguyễn Hữu Dũng: Mở rộng kinh tế phi nông nghiệp để cải thiện sinh kế nông thôn
trưởng. Điều này không có nghĩa là nông nghiệp suy giảm khi kinh tế phi
nông nghiệp phát triển, mà là tỷ trọng sản lượng nông nghiệp trong tổng
sản lượng sẽ giảm – hiện tượng là bình thường và chúng ta phải chấp
nhận.
![]() |
TS. Nguyễn Hữu Dũng: “Kinh tế phi nông nghiệp |
PLVN trao đổi với TS. Nguyễn Hữu Dũng – Trưởng Bộ môn Kinh tế Tài nguyên, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân xung quanh vấn đề này.
PV: Ông có thể cho biết vai trò củakinh tế phi nông nghiệp tại nông thôn?
– Trong những năm gần đây, kinh tế nông
nghiệp ở Việt Nam đang có những thay đổi sâu sắc cả về quy mô và cơ cấu.
Diện tích đất canh tác nông nghiệp giảm, cơ sở hạ tầng và cơ cấu lao
động nông thôn thay đổi, các hoạt động kinh tế phi nông nghiệp ngày càng
đóng vai trò quan trọng, tác động đến phúc lợi của nông hộ.
Một trong những xu hướng thay đổi rất
đáng chú ý là nhiều hộ gia đình chuyển đổi hoạt động kinh tế nông nghiệp
sang các hoạt động kinh tế phi nông nghiệp như là: di cư ra khỏi khu
vực nông thôn theo thời vụ hoặc lâu dài; chuyển sang làm việc hoàn toàn
trong các nhà máy tại các khu công nghiệp lân cận; chuyển một phần làm
phi nông nghiệp nhưng có kết hợp với hoạt động nông nghiệp phụ trợ tại
địa phương. Đây chính là quá trình đa dạng hóa thu nhập, nên được xem
như là chiến lược sinh kế quan trọng của nông hộ.
![]() |
Hình minh họa |
Ông đánh giá như thế nào về xu hướng này trong thời gian tới, và những tác động của nó?
– Nghề nông sẽ thay đổi khi nhiều người
trẻ tuổi và có trình độ học vấn tốt chuyển ra khỏi nông nghiệp để tìm
kiếm thu nhập cao hơn ở những nơi khác, còn những người lớn tuổi ở lại
các khu vực nông thôn.
Ngày càng có nhiều tín hiệu cho thấy sẽ
hình thành nhiều hơn canh tác quy mô trung bình và lớn. Các nông trại
lớn sẽ ký hợp đồng, dần dần các nông trại nhỏ lẻ tự cung tự cấp sẽ được
hợp nhất thành các đơn vị lớn hơn, khả thi hơn, với nhiều cơ giới hóa
hơn và ít nông dân toàn thời gian hơn.
Sẽ có một lượng lớn dòng người từ nông
thôn đến thị trấn, nhưng chúng ta vẫn cần thúc đẩy quá trình phát triển
kinh tế phi nông nghiệp như sửa chữa máy móc, phát triển đường nông thôn
và các cơ sở hạ tầng khác, chế biến thực phẩm địa phương, cung cấp các
dịch vụ nông thôn (kế toán, ngân hàng, phân phối…)
Với sự phục hồi của tăng trưởng kinh tế,
khi thu nhập tăng lên, sẽ có thay đổi theo hướng tăng công nghiệp và
dịch vụ. Điều này không có nghĩa là nông nghiệp suy giảm khi nền kinh tế
phát triển, mà là tỷ trọng sản lượng nông nghiệp trong tổng sản lượng
sẽ giảm. Vì vậy, tăng trưởng sản lượng nông nghiệp sẽ chậm hơn tăng
trưởng trong các lĩnh vực khác là điều bình thường và chúng ta phải chấp
nhận.
Các cải cách trong lĩnh vực nông nghiệp
cũng có tác động lớn đến kinh tế phi nông nghiệp do mối liên kết giữa
hai lĩnh vực, cả tích cực và tiêu cực. Nói chung, tăng trưởng trong lĩnh
vực trồng trọt có ảnh hưởng tích cực đến kinh tế phi nông nghiệp và
ngược lại, nhưng điều quan trọng là kinh tế phi nông nghiệp phải được mở
rộng để cải thiện sinh kế nông thôn về lâu dài khi ngành nông nghiệp dự
kiến sẽ chủ yếu dựa vào hợp đồng chứ không làm nhỏ lẻ nữa. Việc thúc
đẩy các doanh nghiệp phi nông nghiệp ở nông thôn sẽ giúp hấp thụ lao
động nông nghiệp dư thừa, kích thích phát triển và xóa đói giảm nghèo ở
nông thôn. Đến nay, thu nhập của các hộ gia đình nông thôn từ các nguồn
phi nông nghiệp có thể đạt đến 30 đến 50%.
Chúng ta cần làm gì để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế phi nông nghiệp hiện nay, thưa ông?
– Quá trình phát triển hoạt động kinh tế
phi nông nghiệp nước ta tỏ ra có những hạn chế, để thúc đẩy phát triển
thì còn nhiều vấn đề cần giải quyết. Trong điều kiện của chúng ta, chính
sách thúc đẩy tăng trưởng kinh tế phi nông nghiệp có thể bắt nguồn từ
nhóm các yếu tố tài nguyên; và nhóm các yếu tố thể chế, bao gồm cả thể
chế chính thức (kinh tế và xã hội) và thể chế phi chính thức (niềm tin,
chuẩn mực, giá trị, thói quen).
Ở nhóm chính sách về các yếu tố tài
nguyên, triển vọng phụ thuộc vào ba nhóm nguồn lực nội sinh gồm: Tài sản
vật chất, chẳng hạn như phát triển rừng, khai thác thủy sản bền vững,
làm du lịch sinh thái, sử dụng lợi thế vị trí; Cơ sở hạ tầng, chẳng hạn
như cải tạo đường xá và viễn thông; Vốn con người và xã hội, chẳng hạn
như nâng cao trình độ học vấn, cơ cấu nhân khẩu học và kỹ năng của người
dân, sàng lọc lãnh đạo địa phương, và kết nối với các khu vực đô thị.
Ở nhóm yếu tố thể chế cần thúc đẩy bao
gồm: Hạ tầng kinh tế, chẳng hạn như dịch vụ ngân hàng và thị trường tín
dụng, mạng lưới kinh doanh hoặc phòng thương mại; Cơ sở hạ tầng hành
chính, bao gồm chất lượng của cơ quan hành chính, các hợp tác thương
mại…
Đối với các nguồn lực vật chất của địa
phương, nó ảnh hưởng trực tiếp tới triển vọng tăng trưởng bởi có mối
quan hệ giữa nguồn lực vật chất và mô hình sản xuất. Một lợi thế khác là
vị trí và khoảng cách về thời gian, cũng như “khoảng cách văn hóa” đến
các trung tâm kinh tế (ví dụ: thị trấn và chợ) có thể quyết định triển
vọng tăng trưởng ở một địa phương. Cơ sở hạ tầng, mật độ đường cũng
thường là một trong những yếu tố quyết định triển vọng thoát nghèo nông
thôn ở cấp hộ gia đình. Ngoài ra, các thông số về vốn con người, chẳng
hạn như trình độ học vấn, kỹ năng và độ tuổi từ lâu đã được công nhận là
có ảnh hưởng đến tăng trưởng. Vì vậy các chính quyền địa phương nên chú
trọng cải thiện các yếu tố nền tảng này.
Đối với các thể chế chính thức, các thỏa
thuận thương mại là quan trọng. Một khu vực thương mại cởi mở có thể
hoạt động như một động lực của tăng trưởng địa phương, thông qua liên
kết khu vực sản xuất với thương mại. Việt Nam nên đặc biệt chú ý tới
phát triển kinh tế phi nông nghiệp đa dạng hóa dựa trên nông trại ‘chính
hiệu’, tức là các hoạt động kinh tế do các nông trại truyền thống thực
hiện, sẽ giúp ích nhiều mặt cho nền kinh tế địa phương.
![]() |
Vùng nông thôn |
Tổ chức phi chính thức là mạng xã hội
cũng quan trọng. Vốn xã hội (ví dụ: mạng lưới, chuẩn mực, lòng tin) có
thể là một động lực trong tăng trưởng kinh tế phi nông nghiệp. Các địa
phương nên chú trọng mối liên hệ có thể có giữa đặc điểm dân số và vốn
xã hội, chẳng hạn: lòng tin có liên quan đến sắc tộc tại địa phương
không? Một vấn đề khác là xem vốn xã hội được thể chế hóa như thế nào
trong các cơ cấu kinh tế. Hộ nghèo có tham gia tích cực vào các hiệp hội
địa phương không. Ở mức thu nhập thấp, lợi nhuận cho vốn xã hội có thể
cao hơn lợi nhuậncho vốn nhân lực. Ở mức thu nhập cao hơn, điều ngược
lại có thể đúng. Vì thế, các địa phương có nguồn tài chính hạn chế có
thể nên chú trọng phát triển cộng đồng để phát triển kinh tế với mức đầu
tư phù hợp.
Để thúc đẩy mối liên hệ giữa kinh tế
nông nghiệp và phi nông nghiệp ở nông thôn, chúng ta nên xem xét bối
cảnh rộng hơn cùng các liên kết khác – vì bối cảnh là liên ngành và có
“sự kết nối” của cư dân nông thôn với nhiều thành phần kinh tế, chỉ một
trong số đó là nông nghiệp. Ví dụ, công nghiệp nông thôn có mối liên hệ
chặt chẽ với khu vực thành thị, cả bởi thị trường do khu vực thành thị
cung cấp và bởi sự liên kết giữa các ngành, có thể cạnh tranh hoặc bổ
sung các ngành công nghiệp nông thôn có thể cung cấp các thành phần cho
các ngành công nghiệp thành thị, hoặc có thể lắp ráp hoặc hoàn thiện sản
phẩm của họ.
Kinh tế nông trại và phi nông nghiệp có
thể được liên kết trực tiếp thông qua các hoạt động sản xuất, hoặc liên
kết gián tiếp thông qua thu nhập hoặc đầu tư. Liên kết sản xuất có thể ở
thượng nguồn (xảy ra khi ngành trồng trọt phát triển và tạo ra tăng
trưởng ở thượng nguồn cung cấp đầu vào và dịch vụ); hoặc có thể ở hạ
nguồn (sảy ra khi các hoạt động dựa vào đầu vào của nông trại, chẳng hạn
như chế biến và phân phối nông sản, được gia tăng và do đó làm tăng nhu
cầu đối với các sản phẩm nông nghiệp).Liên kết thu nhập xảy ra khi thu
nhập kiếm được trong một lĩnh vực được chi cho đầu ra của lĩnh vực kia,
và liên kết đầu tư diễn ra khi lợi nhuận từ lĩnh vực này được đầu tư
vào lĩnh vực kia.
Mối liên kết giữa các nông trại với các
công ty chế biến và thương mại cần được thúc đẩy để các mối liên hệ này
dẫn đến việc có thể hoạt động như các cụm hỗ trợ tăng trưởng.
Chúng ta cần can thiệp vào quá trình
phát triển kinh tế phi nông nghiệp tại nông thôn, nhưng sự can thiệp cần
hình dung được khu vực nông thôn có khả năng trông như thế nào trong 10
đến 20 năm tới. Kinh nghiệm từ các nước cho thấy tăng trưởng kinh tế
trên diện rộng có thể làm giảm mức nghèo chung tại nông thôn. Tăng
trưởng kinh tế nhiều nước đã đạt được một số cải thiện về phúc lợi và
nghèo đói bằng cách: Áp dụng cách tiếp cận dần dần đối với cải cách kinh
tế và thay đổi thể chế; Thúc đẩy tăng trưởng khu vực dịch vụ và định
hướng xuất khẩu. Nhưng dù theo đuổi biện pháp nào thì kinh tế phi nông
nghiệp luôn được xem như một phần không thể thiếu của chiến lược tăng
trưởng cho nền kinh tế chứ không phải là một chiến lược phòng thủ để tồn
tại.
Trân trọng cảm ơn ông!