PGS.TS. Tô Trung Thành: Mục tiêu tăng trưởng kinh tế 6,5% gần như chắc chắn không thể đạt được
02/08/2021 2021-08-02 15:50PGS.TS. Tô Trung Thành: Mục tiêu tăng trưởng kinh tế 6,5% gần như chắc chắn không thể đạt được
PGS.TS. Tô Trung Thành: Mục tiêu tăng trưởng kinh tế 6,5% gần như chắc chắn không thể đạt được
PGS.TS. Tô Trung Thành, Trưởng phòng Quản lý Khoa học – Trường Đại học
Kinh tế Quốc dân nhận định, trong bối cảnh diễn biến dịch Covid-19 còn
diễn biến phức tạp và nguồn cung vaccine Covid-19 còn hạn chế, tăng
trưởng kinh tế 6,5% là một con số rất áp lực.
Theo
số liệu Tổng cục Thống kê, tổng sản phẩm trong nước (GDP) quý II/2021
ước tính tăng 6,61% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 6 tháng đầu năm
2021, GDP tăng 5,64%, cao hơn tốc độ tăng 1,82% của 6 tháng đầu năm
2020 nhưng thấp hơn tốc độ tăng 7,05% và 6,77% của cùng kỳ năm 2018 và
2019.
PGS.TS. Tô Trung Thành cho
rằng, GDP 6 tháng đầu năm 2021 đã hồi phục ở mức độ nhất định và cao hơn
nhiều so với mức tăng 1,82% của cùng kỳ năm 2020.
Tuy
nhiên, trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19 bùng phát trở lại lần thứ 4 từ
cuối tháng 4/2021, tại một số địa phương trọng điểm nằm trong chuỗi sản
xuất toàn cầu của Việt Nam như Bắc Giang, Bắc Ninh, Hải Dương, Bình
Dương… và mới đây nhất là “đầu tàu” kinh tế TP. Hồ Chí Minh, đã đặt ra
những thách thức rất lớn đến doanh nghiệp và nền kinh tế trong 6 tháng
cuối năm.
Sức chịu đựng của doanh nghiệp bị bào mòn
Một
trong những trụ cột của nền kinh tế là doanh nghiệp và đây cũng là yếu
tố quan trọng để Việt Nam thành công đạt được mục tiêu kép vừa chống
dịch vừa đảm bảo tăng trưởng kinh tế trong năm 2020.
Sức
chịu đựng bền bỉ của doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp khu vực tư
nhân, quy mô nhỏ và vừa, với thuộc tính linh hoạt đã giúp Việt Nam vượt
qua các đợt dịch trong năm 2020 và đạt được kết quả kinh tế tốt hơn so
với mặt bằng chung của thế giới.
Tuy
nhiên, đến thời điểm hiện tại, khả năng ứng phó đối với làn sóng
Covid-19 mới của các doanh nghiệp đang giảm dần. Đại dịch kéo dài quá
lâu đang bào mòn sức chịu đựng của doanh nghiệp.
Số
liệu của Tổng cục Thống kê cho thấy, 6 tháng đầu năm, có 70,2 nghìn
doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, ngừng hoạt động chờ làm
thủ tục giải thể và hoàn tất thủ tục giải thể; tăng đến 24,9% so với
cùng kỳ năm 2020.
Bên cạnh đó,
35.607 doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh, tăng hơn 22% so với cùng kỳ và
chiếm xấp xỉ 51% tổng số doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường trong 6
tháng đầu năm 2021.
Hiệp hội
Doanh nghiệp TP. Hồ Chí Minh (HUBA) khảo sát nhanh trên 100 doanh nghiệp
bằng hình thức online cho thấy, trong đợt dịch Covid-19 lần thứ 4 này,
có đến 84% doanh nghiệp nhỏ và vừa gặp khó khăn.
Trong
đó, 40% thiếu vốn kinh doanh; thị trường bị ảnh hưởng, thu hẹp chiếm
80%; phải cắt giảm lao động chiếm 52%; bị đứt chuỗi cung ứng nguyên liệu
chiếm 14%; bị cản trở hoạt động kinh doanh do biện pháp cách ly xã hội
phòng dịch chiếm trên 50%…
Ở thời điểm hiện tại, Việt Nam cần tập trung ưu tiên hơn cho mục tiêu chống dịch. Bởi nếu để dịch bệnh lan rộng, những thành tựu hồi phục trong 6 tháng đầu năm có thể bị phá hủy, ảnh hưởng lâu dài đến nền kinh tế. |
Các
doanh nghiệp cũng đang phải đối mặt với áp lực lớn nhất hiện nay là
thiếu vốn và giá nguyên liệu tăng lên chưa biết điểm dừng, chi phí sản
xuất tăng cao làm cho sức cạnh tranh thị trường giảm. Nhiều doanh nghiệp
muốn tái cấu trúc, chuyển đổi sản phẩm, ứng dụng công nghệ mới, chuyển
đổi số đẩy mạnh mua bán online… nhưng đang kẹt về vốn.
Ngoài
ra, các gói hỗ trợ doanh nghiệp, người lao động lần thứ nhất tuy kịp
thời nhưng thực thi chưa có tác động rõ nét đến doanh nghiệp, mức độ hấp
thụ của doanh nghiếp rất thấp.
HUBA
cho hay, một số chính sách giãn thuế, bảo hiểm xã hội, tiền thuê đất…
đối với doanh nghiệp tuy đã giúp doanh nghiệp bớt khó khăn về thanh
khoản, dòng tiền nhưng thời gian áp dụng ngắn, số lượng không lớn nên
chưa thể giúp doanh nghiệp vượt qua khó khăn.
PGS.TS
Tô Trung Thành cũng nhận thấy, không chỉ các doanh nghiệp nhỏ và vừa,
cả các doanh nghiệp có quy mô lớn cũng đã bắt đầu gặp khó khăn khi đại
dịch kéo dài và ngày càng khó đoán định.
Các
doanh nghiệp đang gặp những bất lợi lớn từ phía tổng cầu suy giảm, cộng
thêm những khó khăn gia tăng từ chi phí đầu vào, như giá năng lượng,
giá thuê đất, giá cả sản xuất tăng nhanh.
Song
song với đó, những biện pháp phòng chống dịch thiếu nhất quán giữa các
địa phương cũng đang ảnh hưởng lớn đến chi phí vận chuyển, logistics,
cũng như có khả năng làm đứt gẫy chuỗi cung ứng cho các doanh nghiệp…
![]() |
Đại dịch Covid-19 đặt ra những thách thức rất lớn đến doanh nghiệp và nền kinh tế Việt Nam trong 6 tháng cuối năm 2021. (Nguồn: Sohu) |
Giải bài toán khó cho tăng trưởng
Đối
với tăng trưởng kinh tế, PGS. TS. Tô Trung Thành khẳng định: “Gần như
chắc chắn mục tiêu tăng trưởng kinh tế 6,5% của Chính phủ đề ra từ đầu
năm là không thể đạt được.
Để
hoàn thành mục tiêu tăng trưởng 6,5% trong cả năm như đã đề ra, theo
tính toán, tăng trưởng 6 tháng cuối năm phải đạt hơn 7%. Đây là một con
số rất áp lực trong bối cảnh diễn biến dịch Covid-19 còn diễn biến phức
tạp và nguồn cung vaccine còn hạn chế”.
Theo
PGS. TS. Tô Trung Thành, năm nay, Chính phủ vẫn đề ra mục tiêu kép,
chống dịch và phát triển kinh tế, tuy nhiên, ở thời điểm hiện tại, Việt
Nam cần tập trung ưu tiên hơn cho mục tiêu chống dịch. Bởi nếu để dịch
bệnh lan rộng, những thành tựu hồi phục trong 6 tháng đầu năm có thể bị
phá hủy, ảnh hưởng lâu dài đến nền kinh tế.
Để giải bài toán khó tăng trưởng kinh tế năm nay, PGS. TS Tô Trung Thành cho rằng, có 7 khuyến nghị cần lưu ý.
Thứ nhất,
chính phủ cần có những bước đi kiên quyết, đúng đắn và kịp thời để kiềm
chế sự lây lan bùng phát của đại dịch Covid-19, đẩy nhanh chương trình
tiêm vaccine, đi kèm là các biện pháp gia tăng sự đồng lòng và ý thức
của người dân trong phòng chống dịch bệnh.
Thứ hai,
cần tiếp tục đẩy nhanh giải ngân vốn đầu tư công, coi đây là một động
lực quan trọng cho tăng trưởng trong giai đoạn đầu tư khu vực tư nhân
còn rất khó khăn.
Thứ ba,
chính sách hỗ trợ tín dụng nên hướng đến cả các doanh nghiệp ít bị ảnh
hưởng do đại dịch, nhưng có độ lan tỏa lớn, có tác động tích cực đến các
ngành, các lĩnh vực khác để thúc đẩy sản xuất của cả thị trường.
Thứ tư,
cần hướng dòng tiền vào khu vực sản xuất thực, kiểm soát cung tiền
nhưng cho phép nới lỏng tín dụng hơn ở các NHTM đảm bảo các điều kiện về
an toàn. Kiểm soát chặt chẽ tăng trưởng “nóng” của các thị trường tài
sản.
Thứ năm, các chính
sách hỗ trợ doanh nghiệp bị tác động bởi đại dịch cần được thực hiện
theo hướng tập trung hơn, đúng đối tượng và thực chất hơn, theo sát với
nhu cầu của doanh nghiệp hơn.
Cần
có chọn lọc, phân loại ngành nghề để hỗ trợ, dựa trên một số tiêu chí
như tính lan tỏa, tác động tích cực tới các ngành, lĩnh vực khác; tạo
nhiều công ăn việc làm; có khả năng phục hồi sau đại dịch.
Thứ sáu,
cần giảm thiểu các thủ tục đối với doanh nghiệp khi lập hồ sơ đề nghị
hỗ trợ, điển hình là yêu cầu phải chứng minh tài chính chi tiết, chứng
minh về việc không có doanh thu hoặc không có nguồn tài chính để trả
lương.
Thứ bảy, cần thực
hiện những giải pháp mang tính dài hạn để chuyển đổi căn bản mô hình
tăng trưởng, gia tăng chất lượng tăng trưởng, ứng dụng chuyển đổi số và
công nghệ số. Nhờ đó, nền kinh tế mới có thể duy trì sản xuất trong đại
dịch, hồi phục nhanh chóng sau đại dịch và tiến tới phát triển bền vững.
Linh Chi