PGS.TS Giang Thanh Long: ‘Việt Nam nên thiết kế hệ thống hưu trí đa tầng’
15/12/2021 2021-12-15 16:04PGS.TS Giang Thanh Long: ‘Việt Nam nên thiết kế hệ thống hưu trí đa tầng’
PGS.TS Giang Thanh Long: ‘Việt Nam nên thiết kế hệ thống hưu trí đa tầng’
Việt Nam nên thiết kế hệ thống hưu trí đa tầng,
linh hoạt độ tuổi hưởng lương hưu để giải quyết vấn đề rút BHXH một lần
và già hóa dân số, theo PGS.TS Giang Thanh Long.
Tình trạng rút bảo hiểm xã hội (BHXH) một lần gia
tăng, cùng già hóa dân số nhanh chóng sẽ gây áp lực lớn lên hệ thống an
sinh lẫn ngân sách nhà nước. VnExpress phỏng vấn PGS.TS Giang Thanh Long, Giảng viên cao cấp Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, về vấn đề này.
– Ông nhìn nhận thế nào về chính sách hưu trí của Việt Nam hiện nay so với tốc độ già hóa dân số?
–
Chỉ hai năm sau cuộc tổng điều tra dân số 2019 đến nay, tổng dân số
Việt Nam tăng thêm gần 2,1 triệu người thì dân số cao tuổi cũng tăng
thêm gần 1,2 triệu, chiếm 56%. Tốc độ già hóa dân số của Việt Nam ngày
càng lớn và rất cao so với những nước có mức thu nhập tương đương.
Cả
nước hiện có 12,6 triệu người cao tuổi (chiếm 12,8% tổng dân số), nhưng
dự báo đến năm 2049 sẽ có 28,6 triệu người (chiếm gần 25% dân số), tức
là cứ 4 người thì có 1 người cao tuổi.
PGS.TS Giang Thanh Long có nhiều năm nghiên cứu về các
vấn đề dân số, khía cạnh kinh tế của già hóa dân số, an sinh xã hội.
Ảnh: Gia Chính
Dân số già hóa nhanh, trong khi hệ thống hưu
trí Việt Nam được thiết kế đơn tầng với độ bao phủ hạn chế. Ngoài hai
chương trình hưu trí từ bảo hiểm xã hội (BHXH) bắt buộc và tự nguyện dựa
trên đóng góp của người lao động, chúng ta chỉ có thêm hệ thống hưu trí
xã hội không dựa trên đóng góp, chi trả từ ngân sách Nhà nước dành cho
người trên 80 tuổi không có lương hưu, hoặc khoản trợ cấp BHXH cho người
từ 60 đến 79 tuổi dựa trên gia cảnh.
Chỉ khoảng
60% người cao tuổi đang hưởng trên cả hai hệ thống này. Số còn lại không
có hưu trí lẫn trợ cấp, phần lớn vẫn đi làm hoặc phụ thuộc vào con,
cháu. Bức tranh hưu trí hiện nay có chút gam xám vì đó là thế hệ sinh ra
trước và sau các cuộc chiến tranh, hệ thống an sinh xã hội chưa phát
triển, lại chịu ảnh hưởng khó khăn từ thời bao cấp hoặc “về một cục”
theo Chế độ 176. Chưa kể, hai năm đại dịch liên tiếp, con em họ cũng gặp
vấn đề về việc làm, thu nhập và gặp khó trong hỗ trợ bố mẹ già.
Bức
tranh an sinh giai đoạn sau có thể được cải thiện khi có nhiều chính
sách hơn, người lao động tham gia BHXH tích cực, diện bao phủ hưu trí
tăng lên, chưa kể người lao động còn đa dạng hóa các khoản thu nhập.
Song tỷ lệ bao phủ BHXH bắt buộc vẫn còn thấp, chỉ trên 30% số người
trong độ tuổi lao động. Chưa kể tình trạng rút BHXH tăng mạnh, nhất là
hai năm qua do ảnh hưởng của đại dịch. Già hóa dân số cùng với rút BHXH
một lần sẽ là hai yếu tố cộng hưởng gây áp lực cực kỳ lớn lên hệ thống
hưu trí sau này. Bài học về chế độ 176 gần ba mươi năm trước vẫn còn
nguyên.
Khoảng 3,7 triệu lao động đã chọn rút BHXH một lần, từ 2016 đến 2020. Video: Tạ Lư
– Áp lực ấy thể hiện trên những khía cạnh nào?
–
Nhiều ý kiến cho rằng rút BHXH một lần để lấy tiền kinh doanh buôn bán
và tự lo cuộc sống khi về già. Nhưng thực tế cho thấy số lượng rất ít
những người có thể dùng số tiền hưởng một lần đó thành công lớn trong
kinh doanh. Phần lớn lao động xin hưởng một lần không phải người nghèo,
song ở mức thu nhập thấp và họ dùng tiền cho những chi tiêu trước mắt
như sửa nhà cửa, chi tiêu hàng ngày và một phần cho giáo dục, khám chữa
bệnh.
Thực tế này cũng xảy ra ở những nước khác khi
đối mặt với suy giảm và suy thoái kinh tế. Điểm bất lợi lâu dài mà
người lao động có thu nhập thấp rút BHXH một lần là ngoài các quyền lợi
an sinh đi kèm bị cắt, khoản tiền họ nhận về không phải quá lớn để có
thể đầu tư ra tấm ra món. Chơi chứng khoán, bất động sản đang nóng,
nhưng với biến động kinh tế thì không ai dám chắc chắn rằng khoản tiền
này sẽ được đầu tư lâu bền.
Một số nghiên cứu về
việc rút BHXH một lần của người lao động ở châu Âu với dữ liệu SHARE (dữ
liệu theo dõi cá nhân về việc làm, thu nhập… theo thời gian) đã chỉ
ra rằng phần nhiều người xin rút đều là lao động có thu nhập thấp, và
cũng phần lớn trong số đó có nguy cơ hoặc đã trở thành người cao tuổi
nghèo, phải quay lại hệ thống an sinh xã hội để nhận trợ cấp. Chính vòng
xoáy này khiến cho hệ thống BHXH chịu ảnh hưởng, trong khi gánh nặng
ngân sách nhà nước tăng lên vì phải chi trợ cấp xã hội. Hiện tượng này
diễn ra trên diện rộng có thể đe dọa sự bền vững cả về độ bao phủ lẫn
tài chính của hệ thống an sinh xã hội.
Việt Nam
đang muốn tránh đi vào con đường này. Các nhà làm chính sách cũng phải
nhìn nhận rằng đang có những lỗ hổng, những điểm chưa phù hợp trong
thiết kế chính sách BHXH bắt buộc lẫn tự nguyện trong bối cảnh hiện nay.
– Những “lỗ hổng” trong thiết kế chính sách dẫn đến vấn đề gì với người lao động?
–
Khảo sát chúng tôi thực hiện với lao động khu vực phi chính thức cho
thấy họ lưỡng lự tham gia BHXH tự nguyện vì chỉ có hai chế độ dài hạn
(hưu trí và tử tuất), trong khi quyền lợi sát sườn (như ốm đau, thai sản
hay hỗ trợ khi tai nạn lao động, thất nghiệp) lại không có. Trải qua
đợt dịch kéo dài, họ mất việc làm, hết sinh kế và cũng không được hưởng
trợ cấp thất nghiệp dù tham gia BHXH tự nguyện.
Lao
động phi chính thức chiếm tỷ lệ lớn trong lực lượng lao động – chính là
nhóm mà BHXH tự nguyện cần hướng tới để tăng độ bao phủ, nhưng tỷ lệ
tham gia lại thấp. Hai năm qua, lực lượng này lại tăng mạnh do tác động
của Covid-19. Khoảng 55% số người trong độ tuổi lao động, tương đương
27,5 triệu người không có hợp đồng, không tham gia BHXH, nghĩa là họ
không có lưới an sinh bao phủ.
Trong thời kỳ kinh
tế bùng nổ, họ cứ đi làm, kiếm tiền, không tham gia BHXH và chưa thấy
vấn đề gì xảy ra. Song đợt dịch thứ tư kéo dài khiến nhiều lỗ hổng an
sinh xã hội với nhóm này bộc lộ. Đây cũng chính là nhóm không được hưởng
chính sách hỗ trợ từ Quỹ Bảo hiểm thất nghiệp (gói 38.000 tỷ) do không
đóng BHXH, cũng là nhóm khó nhận hỗ trợ từ gói 26.000 tỷ hay 62.000 tỷ
đồng bởi việc xác định họ rất khó khăn do không có đầy đủ dữ liệu. Họ
chính là nhóm “mất tích” (the missing middle) trong hệ thống BHXH ở Việt
Nam. Những lao động rút BHXH một lần trong bối cảnh kinh tế đang chịu
ảnh hưởng tiêu cực cũng rất dễ rơi vào nhóm “mất tích” này.
Chính
những dữ liệu kê khai sau các đợt hỗ trợ khó khăn do Covid-19 là cơ hội
để nhóm lao động này lộ diện, và cần có thiết chế chính sách phù hợp
với điều kiện công việc của họ.
Người cao tuổi phân loại lá, cành bông lúa để kiếm thêm
thu nhập tại cơ sở làm cốm tại Hà Nội, tháng 10/2021. Trong số hơn 13
triệu người già Việt Nam, khoảng 60% không có lương hưu. Ảnh: Ngọc Thành.
– Dự thảo Luật Bảo hiểm xã hội sửa đổi
tới đây, các cơ quan soạn thảo tính tới hướng giảm năm đóng BHXH và siết
điều kiện hưởng BHXH một lần. Ông đánh giá thế nào?
–
Tôi cho rằng đây vẫn là chính sách “nhất thời”, giải quyết những tồn
tại trước mắt mà chưa nhìn tổng thể, dài hơi. Việc giảm năm đóng để
người lao động sớm có lương hưu có thể tạo nên nguy cơ nhiều hơn lợi
ích, dễ tạo nên xu hướng lao động tham gia BHXH chỉ trong ngắn hạn.
Nghĩa là họ tìm đến chính sách an sinh như một nơi trú tạm thời, duy trì
một phần thu nhập thường xuyên, đóng vào Quỹ để sau này có lương hưu dù
ở mức thấp.
Hậu quả người lao động dễ rơi vào vòng
luẩn quẩn, tuổi già vẫn phải làm việc kiếm sống và đối mặt với sức khỏe
kém, nhiều bệnh tật. Việt Nam chưa đạt được mức phúc lợi như các nước
phát triển mà ở đó người cao tuổi đi làm với mong muốn đóng góp cho xã
hội, và thực sự yêu thích được làm việc hơn là vì thêm thu nhập.
Giảm
năm đóng BHXH lợi cho những người muốn nghỉ hưu sớm, song có thể lãng
phí một lực lượng lao động còn khả năng làm việc với số năm lao động rất
dài. Chưa kể còn liên quan đến câu chuyện thuế thu nhập cá nhân khi
những người về hưu có thể tiếp tục kinh doanh, kiếm tiền nhưng được miễn
thuế hoặc đóng rất ít.
– Để vá “lỗ hổng” an sinh và theo kịp tốc độ già hóa dân số, đâu là những kinh nghiệm quốc tế mà Việt Nam nên học hỏi?
–
Với BHXH bắt buộc, việc “linh hoạt” hưởng lương hưu chỉ nên thực hiện ở
giai đoạn sau tuổi nghỉ hưu. Như Nhật Bản, tuổi nghỉ hưu theo quy định
là 65 và sau tuổi này người lao động có thể tiếp tục làm việc, đóng bảo
hiểm và được chọn độ tuổi nghỉ hưu cho tới khi 70 tuổi. Lao động nghỉ ở
tuổi nào trong khoảng 65-70 sẽ được tính lương hưu ở tuổi đó, hưởng
tương xứng với số năm và mức đóng góp, nguyên tắc người đóng ở độ tuổi
cao thì điều chỉnh mức hưởng cao hơn.
Việt Nam có
thể điều chỉnh linh hoạt theo này, theo hướng tuổi làm việc ở công sở
theo quy định, nhưng tuổi nghỉ hưu nói chung với người lao động thì
không quy định “cứng”. Người dân có thể đóng BHXH bình thường và tự chọn
đăng ký nghỉ hưu ở độ tuổi muộn hơn. Ví dụ, lao động muốn nghỉ hưu ở
tuổi 70 sẽ tính mức hưởng lương hưu theo tuổi này với những khuyến khích
nhất định. Nhưng để làm được điều này, giai đoạn trước đó cần tạo việc
làm bền vững, có tích lũy, nâng thu nhập của người lao động lên để mức
đóng cũng tăng theo, chứ không phải đóng trên lương tối thiểu vùng như
hiện nay.
Ngoài ra, Chính phủ nên thiết kế một hệ
thống hưu trí đa tầng với côngthức hưởng khác nhau. Tầng dưới cùng dành
cho lao động hưởng lương hưu dựa trên những năm đóng BHXH ở mức thu
nhập tối thiểu. Hưu trí tầng này do Nhà nước phụ trách, hưởng dưới mức
lương tối thiểu thì bù thêm. Tầng hai là những người đã đến tuổi nghỉ
hưu nhưng vẫn làm việc, có thu nhập và tiếp tục tham gia BHXH theo
nguyên tắc chia sẻ chung. Nhóm này tự chọn tuổi nghỉ hưu và mức hưởng
tương xứng tuổi nghỉ. Tầng trên cùng dành cho những người đóng bao nhiêu
hưởng bấy nhiêu như hình thức tài khoản cá nhân.
Với
BHXH tự nguyện, cần bổ sung các chính sách thiết thực mà lao động cần,
như thai sản, trợ cấp thất nghiệp… để mở rộng diện bao phủ vì đây là
khu vực tiềm năng.
Báo Vnexpress.net