PGS.TS Tô Trung Thành: Hỗ trợ nguồn lực cho doanh nghiệp vừa và nhỏ: ưu tiên hàng đầu trong Covid-19

PGS.TS Tô Trung Thành: Hỗ trợ nguồn lực cho doanh nghiệp vừa và nhỏ: ưu tiên hàng đầu trong Covid-19

Thông Tin Kinh Tế

PGS.TS Tô Trung Thành: Hỗ trợ nguồn lực cho doanh nghiệp vừa và nhỏ: ưu tiên hàng đầu trong Covid-19

(KTSG Online) – Quy mô chi tiêu ngân sách có thể gia tăng, trong khi
hoạt động thu ngân sách sẽ gặp nhiều khó khăn hơn nếu dịch Covid-19 kéo
dài, khiến dư địa tác động của chính sách hỗ trợ tài khóa với nền kinh
tế bị thu hẹp. 

Đường phố Hà Nội vắng vẻ hơn trong giai đoạn chịu ảnh hưởng từ làn sóng lây nhiễm Covid-19 thứ ba. Ảnh: Phạm Hưng.

Chia sẻ với KTSG Online, PGS. TS Tô Trung Thành – Trưởng phòng
Quản lý Khoa học thuộc Trường Đại học Kinh tế Quốc dân – cho rằng Chính
phủ nên kiên định với mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô trong bối cảnh
dịch Covid-19 có thể tiếp tục kéo dài.

KTSG Online: Làn sóng lây nhiễm Covid-19 đã trở lại với sự
xuất hiện của biến thể virus mới, dư địa chính sách hỗ trợ kinh tế sẽ bị
ảnh hưởng như thế nào, thưa ông?

PGS. TS Tô Trung Thành: Với chính sách tài khóa, thu
ngân sách Nhà nước (NSNN) năm 20219 tương ứng 25,69% GDP. Năm 2020, con
số này giảm xuống còn 21,3% GDP do nền kinh tế suy giảm sâu khi chịu tác
động của đạidịch Covid-19. Trong khi chi ngân sách năm 2020 giảm không
đáng kể so với năm 2019.

Cụ thể, chi ngân sách không bao gồm chi trả nợ gốc năm 2020 là 27,14%
GDP so với 28,95% GDP năm 2019. Còn chi ngân sách bao gồm chi trả nợ gốc
là 30,75% GDP so với 32,07% GDP năm 2019. Điều này khiến cho thâm hụt
ngân sách gia tăng.

Ước tính bội chi ngân sách không bao gồm chi trả nợ gốc năm 2020 là
khoảng 363.100 tỉ đồng, tăng 78,9% so với năm 2019 và tương ứng với
5,84% GDP – mức cao nhất kể từ năm 2011 cho đến nay. Con số này cao hơn
mức 3,44% trong dự toán và mức 3,36% của năm 2019. Nếu tính thêm cả chi
trả nợ gốc thì bội chi ngân sách khoảng 9,46% GDP.

Với mức thâm hụt gia tăng, quy mô nợ công của Việt Nam dự kiến tăng nhẹ
lên mức 56,8% – 57,4% GDP và dư nợ Chính phủ bằng khoảng 50,8% – 51,4%
GDP ở thời điểm cuối năm 2020, trong khi tỷ lệ này là 55% GDP trong năm
2019.

So với các các quốc gia khác, Việt Nam luôn có tỷ lệ thâm hụt ngân sách
Nhà nước cao hơn trung bình các nước trong khu vực và các nước có thu
nhập trung bình thấp trên thế giới trong 5 năm gần đây. Bên cạnh đó, mức
nợ chính phủ của Việt Nam hiện cũng đang cao hơn quy mô trung bình của
nhóm các nước này.

Vì vậy có một số vấn đề cần lưu ý, dù các chỉ số về nợ công của Việt Nam hiện vẫn ở trong ngưỡng được coi là an toàn.

Thứ nhất, các khoản nợ công của Việt Nam vẫn chưa tính đủ các gánh nặng
nợ tiềm tàng từ hoạt động của khu vực ngoài ngân sách như hoạt động của
bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, khu vực ngân hàng và đặc biệt là khu
vực doanh nghiệp Nhà nước. Vì vậy nền kinh tế có thể gặp bất ổn khi tổng
số nợ quá cao, dù nợ công không rơi xuống ngưỡng nguy hiểm.

Thứ hai, nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ đã chạm mức trần là
25% tính trên tổng thu ngân sách Nhà nước năm 2020. Tỷ lệ này dự kiến sẽ
ở mức cao hơn trong thời gian tới.

Thứ ba, nghĩa vụ nợ dự phòng – và có lẽ quan trọng hơn là nghĩa vụ nợ
dự phòng tiềm ẩn – nếu hiện thực hóa, có thể làm cho Việt Nam càng thêm
dễ tổn thương với lộ trình nợ như hiện nay, ngay cả khi cân đối ngân
sách cơ bản của Việt Nam vẫn được quản lý cẩn trọng.

Thâm hụt ngân sách dai dẳng, chi tiêu NSNN cao với cơ cấu bất hợp lý,
tỷ lệ thu NSNN/GDP và tỷ lệ nợ công/GDP cao là những đặc điểm khiến cho
dư địa chính sách tài khóa của Việt Nam rất hạn hẹp. Quy mô chi tiêu
ngân sách có thể sẽ gia tăng nếu đại dịch tái bùng phát và kéo dài,
trong khi thu ngân sách trở nên khó khăn hơn do nền kinh tế rơi vào vòng
xoáy suy giảm. Điều này khiến tình trạng thâm hụt ngân sách và nợ công
sẽ trở nên căng thẳng, dư địa tác động của chính sách tài khóa sẽ càng
bị thu hẹp lại.

Về chính sách tiền tệ, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Việt Nam đã ba lần
tiến hành điều chỉnh giảm lãi suất trong năm 2020 khiến lãi suất huy
động và cho vay giảm xuống khá sâu, thanh khoản hệ thống ngân hàng gia
tăng. Cơ quan này cũng áp dụng một số chính sách gồm Thông tư
01/2020/TT-NHNN, Thông tư 08/2020/TT-NHNN theo hướng nới lỏng một số quy
định về an toàn hệ thống.

Theo đó, tổng phương tiện thanh toán năm 2020 tăng 12,56%, tín dụng của
toàn hệ thống tăng trưởng 10,14%. Nhưng tăng trưởng kinh tế chỉ ở mức
2,91% trong năm 2020, thấp hơn nhiều so với mức 7,02% của năm 2019 là
7,02%.

Việc tăng trưởng cung tiền và tín dụng cao hơn nhiều so với tăng trưởng
kinh tế đã khiến sức ép lạm phát và bong bóng giá tài sản luôn thường
trực. Rủi ro kinh tế vĩ mô có thể gia tăng khi tiếp tục nới lỏng mạnh
hơn chính sách tiền tệ để hỗ trợ nền kinh tế.

Bên cạnh đó, lãi suất thực tại Việt Nam hiện ở mức thấp, các doanh
nghiệp phụ thuộc nhiều tín dụng trong khi hiệu quả tín dụng chưa cao,
sức khỏe của các tổ chức tín dụng chưa thực sự lành mạnh cũng khiến cho
dư địa chính sách tiền tệ cùng dần bị thu hẹp.

Vậy đề xuất ông nêu ra liệu có
thể vừa duy trì các hoạt động sản xuất và kinh doanh, vừa bảo đảm an
toàn trước nguy cơ lây nhiễm dịch bệnh?

Yếu tố quan trọng nhất để đạt được mục tiêu kép – giảm nguy cơ lây
nhiễm dịch bệnh và duy trì tăng trưởng kinh tế – là phải có cách thức
chống dịch hiệu quả. Theo đó, Chính phủ cần có những bước đi kiên quyết,
đúng đắn và kịp thời để kiềm chế sự lây lan bùng phát của đại dịch
Covid-19, đi kèm các biện pháp để gia tăng sự đồng lòng và ý thức của
người dân trong phòng chống dịch bệnh.

Ngoài ra, Chính phủ cần tiếp tục các giải pháp để hỗ trợ nền kinh tế,
gia tăng độ bao phủ và hiệu quả của các giải pháp để hỗ trợ “hồi sức”
cần thiết nền kinh tế, duy trì và thích ứng với giai đoạn mới.

Trong quá trình thực thi chính sách, các chính sách hỗ trợ cần rõ ràng
và minh bạch về thủ tục, cũng như đối tượng được hưởng các gói chính
sách. Chính phủ cần giảm thiểu những phiền hà về thủ tục và quy trình
tiếp cận các gói hỗ trợ, đặc biệt là thủ tục chứng minh về tài chính.

“Bất kể bệnh dịch kéo dài bao lâu, nhiều doanh nghiệp có thể sẽ phá
sản, nhưng Chính phủ vẫn cần đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô”, ông Thành
nhấn mạnh.

Ngoài ra, Chính phủ cũng cần lưu ý một số rủi ro sau: rủi ro thể chế
làm chậm tiến độ kích thích tiêu dùng và đầu tư; rủi ro tham nhũng và sợ
trách nhiệm làm giảm hiệu lực và hiệu quả của gói kích thích kinh tế;
rủi ro chệch mục tiêu, không hướng vào đúng và trúng đối tượng cần được
nhận hỗ trợ.

Nguyên tắc cần được giữ vững khi đưa ra chính sách hỗ trợ là phải luôn
giữ vứng ổn định kinh tế vĩ mô. Bất kể dịch bệnh kéo dài bao lâu, nhiều
doanh nghiệp có thể sẽ phá sản, nhưng Chính phủ vẫn cần đảm bảo ổn định
kinh tế vĩ mô.

Cụ thể, cần giữ lạm phát và lãi suất ở mức thấp, tỷ giá ổn định, đầu tư
công được thực hiện đúng mục đích và giám sát tốt, môi trường đầu tư
được cải thiện, thì sau bệnh dịch, nền kinh tế mới hồi phục nhanh chóng.

Vậy chính sách tiền tệ và tài khóa của Việt Nam nên được định hướng như thế nào?

Việt Nam còn rất ít dư địa tiền tệ và tài khóa nên chính sách tiền tệ
nới lỏng cần tiến hành hết sức thận trọng về quy mô và thời gian kéo
dài.

Với chính sách tài khóa, cần thực hiện phương châm ‘chi tiêu đúng trọng
tâm, tiết kiệm, hỗ trợ các đối tượng thực sự cần thiết’.

Cụ thể, chính sách hỗ trợ doanh nghiệp cần đúng đối tượng và thiết thực
hơn. Hiện các chính sách hỗ trợ thông qua giảm mức thu các loại phí, lệ
phí đang được thực hiện một cách dàn trải, ít có tác động thực mà có
thể gây lãng phí ngân sách.

Vì vậy, Chính phủ cần thu hẹp đối tượng thụ hưởng các chính sách hỗ trợ này dựa trên mức độ chịu tác động bởi đại dịch.

Về an sinh xã hội, các gói hỗ trợ những đối tượng bị ảnh hưởng bởi dịch
bệnh cần tiếp tục duy trì, đối tượng thụ hưởng nên được mở rộng và chú
trọng tới nhóm lao động thuộc khu vực phi chính thức.

Về đầu tư công, cần tiếp tục đẩy nhanh việc giải ngân vốn đầu tư.

Với chính sách tiền tệ, công cụ lãi suất nói riêng và chính sách tiền
tệ nói chung thường ít hiệu quả hơn so với chính sách tài khóa trong
giai đoạn hiện nay. Tôi cho rằng chính sách lãi suất nên tập trung cắt
giảm lãi suất cho vay hơn là lãi suất huy động.

Hiện lãi suất đã ở mức thấp nhưng với các doanh nghiệp chịu ảnh hưởng
nặng nề của dịch thì lãi suất không hẳn là yếu tố quyết định đầu tư và
sản xuất – kinh doanh do nhu cầu thị trường suy giảm hoặc không còn.

Vì vậy chính sách hỗ trợ tín dụng nên hướng đến cả các doanh nghiệp ít
bị ảnh hưởng do đại dịch nhưng có độ lan tỏa lớn, có tác động tích cực
đến các ngành, các lĩnh vực khác để thúc đẩy sản xuất của cả thị trường.
Cần hướng dòng tiền vào khu vực sản xuất thực, đồng thời kiểm soát chặt
chẽ tăng trưởng “nóng” của các thị trường tài sản.

Doanh nghiệp nhỏ và vừa thuộc nhóm đối tượng dễ chịu tổn
thương trước những biến cố, vậy cần có giải pháp như thế nào để bảo vệ
họ?

Những giải pháp cho nhóm yếu thế này cần phải được ưu tiên hàng đầu về
nguồn lực và thực hiện nhanh chóng, đặc biệt là nếu bệnh dịch tái bùng
phát trong nước.

Các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và
vừa cần tiếp tục được thực hiện theo hướng tập trung hơn, đúng đối
tượng và thực chất hơn, theo sát với nhu cầu của doanh nghiệp hơn. Cần
có chọn lọc, phân loại ngành nghề để hỗ trợ, trên cơ sở đánh giá, khảo
sát nhanh tác động của dịch Covid-19 đến ngành, nghề cụ thể và có các
điều kiện, tiêu chí.

Về điều kiện/tiêu chí doanh nghiệp nhận hỗ trợ, Chính phủ có thể căn cứ
vào một số tiêu chí chủ yếu gồm: tính lan tỏa – tác động tích cực tới
các ngành, lĩnh vực khác; lao động – tạo nhiều công ăn việc làm; có khả
năng phục hồi sau đại dịch.

Đặc biệt cần tránh hiện tượng trục lợi chính sách hỗ trợ và rủi ro đạo đức.

Bên cạnh đó, cần giảm thiểu các thủ tục đối với các doanh nghiệp khi
lập hồ sơ đề nghị hỗ trợ, điển hình là yêu cầu phải chứng minh tài chính
chi tiết, chứng minh về việc không có doanh thu hoặc không có nguồn tài
chính để trả lương. Thực tế rất nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ bị tác
động nặng nề bởi Covid-19 nhưng vẫn duy trì hoạt động sản xuất kinh
doanh với số lao động giảm mạnh nên không thể tiếp cận được gói hỗ trợ.

Với chính sách thuế, tác động của các gói hỗ trợ gia hạn nộp thuế và
tiền thuế đất hiện nay còn  nhỏ. Vì vậy nên kéo dài thời gian giãn, hoãn
thuế, tiền thuê đất và bổ sung bổ sung đối tượng được gia hạn ít nhất
là đến hết năm 2021.

“Việc giảm thuế thu nhập doanh nghiệp là một phương thức hỗ trợ
chưa đúng cách, làm lãng phí nguồn lực, đồng thời tạo ra sự bất bình
đẳng trong cộng đồng doanh nghiệp”, ông Thành nhận xét.

Chính phủ cũng nên cân nhắc hỗ trợ doanh nghiệp bằng cách giảm thuế giá
trị gia tăng do đây là loại thuế mà diện điều tiết rộng, không cần có
lợi nhuận mới phải nộp như thuế thu nhập doanh nghiệp. Như vậy độ bao
phủ với các đối tương bị ảnh hưởng tiêu cực từ Covid-19 sẽ rộng hơn.

Trước đó, chính sách giảm thuế thu nhập doanh nghiệp đã được thực thi
nhưng rất ít doanh nghiệp có thể tiếp cận được gói hỗ trợ này vì phần
lớn các doanh nghiệp gặp khó khăn, thu hẹp sản xuất và thua lỗ. Việc
giảm thuế thu nhập doanh nghiệp là một phương thức hỗ trợ chưa đúng
cách, làm lãng phí nguồn lực, đồng thời tạo ra sự bất bình đẳng trong
cộng đồng doanh nghiệp.

Ngoài ra, các giải pháp hỗ trợ về chi phí cho doanh nghiệp cần được
tiếp tục đẩy mạnh, gồm: vay không cần tài sản thế chấp đảm bảo tối đa
50% tiền lương tối thiểu; miễn, giảm phí dịch vụ thanh toán điện tử;
giảm tiền thuê đất; tạm dừng đóng bảo hiểm xã hội, kinh phí công đoàn;
hỗ trợ chi phí logistics hàng hải, hàng không, đường bộ, đường thủy nội
địa, đường sắt. Đối với các giải pháp này, cần đơn giản hóa thủ tục hồ
sơ xin hỗ trợ, rút ngắn thời gian hỗ trợ, và tăng cường tính minh bạch.

Xin cảm ơn ông!

Hoàng Thắng

Link: https://www.thesaigontimes.vn/316301/ho-tro-nguon-luc-cho-doanh-nghiep-vua-va-nho-uu-tien-hang-dau-trong-covid-19.html


Đang tuyển sinh