Thuongtruong.com.vn: PGS.TS Phạm Thế Anh: ‘Tránh nôn nóng hạ lãi suất chính sách dồn dập

Thuongtruong.com.vn: PGS.TS Phạm Thế Anh: ‘Tránh nôn nóng hạ lãi suất chính sách dồn dập

Thông Tin Kinh Tế

Thuongtruong.com.vn: PGS.TS Phạm Thế Anh: ‘Tránh nôn nóng hạ lãi suất chính sách dồn dập

Đó là những lưu ý mà PGS. TS Phạm Thế Anh, Trưởng Khoa Kinh tế học, Đại học Kinh tế Quốc dân nêu ra khi bàn về các giải pháp thúc đẩy tăng trưởng. Cùng với đó, theo vị chuyên gia này, cần khuyến khích đầu tư của khu vực tư nhân thông qua tiếp tục hạ lãi suất cho vay nhằm giảm chi phí vốn; tăng khả năng tiếp cận vốn trên thị trường chứng khoán…

Chỉ có 7,34% số doanh nghiệp tiếp cận được vốn tín dụng từ các Qũy

Phát biểu tại Hội thảo “Tăng cường khả năng tiếp cận và hấp thụ vốn của khu vực doanh nghiệp: Khó khăn, thách thức và quyết tâm”, do Ngân hàng Nhà nước (NHNN) tổ chức mới đây, TS. Nguyễn Minh Thảo, Trưởng Ban Nghiên cứu Môi trường Kinh doanh và Năng lực cạnh tranh, Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương (CIEM) đánh giá, vẫn còn một số điểm nghẽn tồn tại như gói hỗ trợ lãi suất 2% không hiệu quả. Doanh nghiệp khó tiếp cận được vốn từ các Quỹ phát triển Doanh nghiệp nhỏ và vừa, Quỹ bảo lãnh tín dụng Doanh nghiệp nhỏ và vừa.

“Theo khảo sát của VCCI, chỉ có 7,34% số doanh nghiệp được hỏi đã tiếp cận được tín dụng từ Quỹ”, bà Thảo thông tin.

Chuyên gia cảnh báo việc nôn nóng hạ lãi suất chính sách dồn dập
TS. Nguyễn Minh Thảo, Trưởng Ban Nghiên cứu Môi trường Kinh doanh và Năng lực cạnh tranh, Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương (CIEM)

Về đến vấn đề chậm hoàn thuế VAT, TS. Nguyễn Minh Thảo đã chỉ rõ những điểm nghẽn, đó là doanh nghiệp xuất khẩu gỗ bị chậm hoàn thuế với con số lên tới hàng nghìn tỷ đồng và vừa qua, tại buổi đối thoại của Chủ tịch UBND TP.HCM với doanh nghiệp Hàn Quốc (ngày 16/8/2023), các doanh nghiệp cũng phản ánh thực tế này.

Bên cạnh đó, môi trường kinh doanh tiềm ẩn nhiều rủi ro, không những không cải thiện, mà còn tạo thêm rào cản và gánh nặng chi phí cho doanh nghiệp. Cụ thể, bà Thảo cho biết, mâu thuẫn, chồng chéo, khác biệt giữa pháp luật về đầu tư, đất đai, đấu thầu, quy hoạch, tài nguyên môi trường, xây dựng… là bất cập lớn được hầu hết các địa phương phản ánh. Ngoài ra, rào cản đăng ký kinh doanh cũng rất phổ biến.

“Nổi bật là quy định về phòng cháy chữa cháy (nhất là Thông tư số 06/2022/TT-BXD ngày 30/11/2022 của Bộ Xây dựng ban hành QCVN 06:2022/BXD về an toàn cháy cho nhà và công trình; Nghị định 136/2020/NĐ-CP), Giấy phép môi trường, Quy định về chứng chỉ năng lực hoạt động xây dựng, An ninh trật tự, Kinh doanh vận tải…”, bà Thảo nói.

Cùng với đó, TS. Nguyễn Minh Thảo cho biết: “Doanh nghiệp phải thực hiện thủ tục điều chỉnh các loại giấy phép con nhiều lần ngay cả khi không có thay đổi về nội dung ảnh hưởng đến phạm vi hoạt động đã được cấp phép. Bên cạnh đó, thuế vẫn là nỗi bức xúc của nhiều doanh nghiệp; kiểm tra chuyên ngành đối với hàng hóa xuất nhập khẩu vẫn tiếp tục là rào cản; gánh nặng thủ tục hành chính vẫn rất nặng nề; văn bản hướng dẫn chậm ban hành khiến doanh nghiệp bị động và gặp nhiều khó khăn; bất cập trong quy định xử phạt vi phạm hành chính…”.

Liên quan đến vấn đề tín dụng bất động sản, vì chiếm tỷ trọng khoảng 20% so với tín dụng chung, nên khi tín dụng bất động sản tăng cao sẽ kéo theo tín dụng toàn hệ thống tăng. Tuy nhiên, bà Giang cho biết, hiện tín dụng bất động sản tăng thấp hơn so với tăng trưởng tín dụng chung.

Trong đó, dư nợ kinh doanh bất động sản trong 6 tháng đầu năm 2023 đã tăng trưởng (17,41%) vượt tốc độ tăng trưởng của cả năm 2022 (10,73%), nhưng dư nợ tiêu dùng, tự sử dụng BĐS chiếm đến 65% dư nợ tín dụng bất động sản lại giảm 1,12% (năm đầu tiên xuất hiện xu hướng giảm trong 3 năm gần đây, cuối năm 2022 tăng 31,01%).

“Điều này cho thấy nguồn vốn tín dụng đang tập trung vào phía cung của thị trường, trong khi đó cầu tín dụng để mua bất động sản với mục đích tiêu dùng, tự sử dụng của thị trường đang sụt giảm. Diễn biến trên cho thấy những giải pháp tháo gỡ khó khăn cho các thị trường vừa qua cũng đã bắt đầu phát huy tác dụng, các khó khăn về mặt pháp lý của các dự án bất động sản đã dần được tháo gỡ, góp phần tăng khả năng tiếp cận tín dụng của chủ đầu tư dự án”, bà Giang nói.

TS. Nguyễn Minh Thảo cũng cho biết, trong bối cảnh khó khăn chung, nhu cầu về mua nhà ở chưa phải là nhu cầu được khách hàng ưu tiên trong thời điểm hiện tại; cơ cấu sản phẩm không hợp lý, dư thừa sản phẩm, phân khúc cao cấp, thiếu nhà ở giá rẻ, phù hợp với nhu cầu của người dân; các dự án bất động sản gặp khó khăn về mặt pháp lý nên không đáp ứng được điều kiện tín dụng dẫn tới khó tiếp cận nguồn vốn.

Trưởng Ban Nghiên cứu Môi trường Kinh doanh và Năng lực cạnh tranh nhấn mạnh: “Bên cạnh đó, cũng cần lưu ý về tỷ lệ nợ xấu của lĩnh vực bất động sản đang có chiều hướng gia tăng so với thời điểm cuối năm trước (tháng 6/2022 là 1,53%, tháng 6/2023 là 2,47%)”.

Tránh nôn nóng hạ lãi suất dồn dập

Bàn về giải pháp để giải quyết tình trạng hiện nay, PGS. TS Phạm Thế Anh, Trưởng Khoa Kinh tế học, Đại học Kinh tế Quốc dân cho rằng, trong bối cảnh sức cầu rất yếu Chính phủ có thể sử dụng một số biện pháp hỗ trợ tổng cầu có chọn lọc nhưng cần kết hợp các chính sách cải thiện tổng cung tiềm năng.

Nêu ra ba động lực từ phía cầu đều đang suy yếu, chuyên gia Phạm Thế Anh cho hay, thứ nhất, tổng mức bán lẻ tăng tốt trong quý I nhưng chậm lại trong quý II.

Theo số liệu từ Tổng cục Thống kê, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng quý I tăng 13,9%; 6 tháng đầu năm tăng 10,9% và 7 tháng đầu năm chỉ tăng 10,4% so với cùng kỳ năm ngoái cho thấy xu hướng tăng chậm lại. Ông cũng nhận định, trong thời gian tới, tiêu dùng dự kiến sẽ tăng chậm lại do lãi suất cao, thu nhập và tài sản giảm.

Động lực thứ hai là đầu tư công tăng khá, các thành phần đầu tư khác đều yếu. Đầu tư nhà nước tăng tốc nhưng còn thấp so với kế hoạch năm do thiếu động lực, vướng mắc pháp lý hay giá nguyên vật liệu cao.

Đầu tư tư nhân tăng rất chậm do lãi suất cao, khó tiếp cận tín dụng và phát hành trái phiếu/cổ phiếu, và đặc biệt là do niềm tin giảm sút. FDI ổn định, tuy nhiên khó tăng mạnh cho tới khi kinh tế thế giới và xuất khẩu hồi phục.

Động lực cuối cùng là xuất nhập khẩu hàng hóa đang giảm mạnh hơn qua các quý. Trong khi quý I, xuất khẩu hàng hóa giảm 10% thì sang quý II giảm tới 14,2%, trung bình 7 tháng đầu năm giảm 10,3%. Nhập khẩu  hàng hóa quý I giảm 13,6%; quý II giảm 22,3% và trung bình 7 tháng đầu năm giảm 17,4%. Do nhập khẩu giảm sâu hơn xuất khẩu nên 7 tháng đầu năm, cán cân thương mại  thặng dư tới 16,5 tỷ USD.

Chuyên gia cảnh báo việc nôn nóng hạ lãi suất chính sách dồn dập
Ông Phạm Thế Anh, Trưởng Khoa Kinh tế học, Đại học Kinh tế Quốc dân (NEU).

Trong các tháng cuối năm, ông Thế Anh dự báo xu hướng tiếp tục khó khăn đối với các mặt hàng hàng tiêu dùng không thiết yếu và liên quan đến nhà ở gây rủi ro mất hẳn đơn hàng. Tuy nhiên, có một điểm tích cực là lượng khách du lịch quốc tế đã tăng 7 lần song vẫn chưa thể bằng với giai đoạn trước dịch COVID-19.

Dự báo về khả năng tăng trưởng năm nay, chuyên gia cho biết, tăng trưởng hồi phục nhẹ nhưng ở mức thấp so với điều kiện bình thường và có nguy cơ kéo dài. Khu vực công nghiệp, đặc biệt là sản xuất chế biến chế tạo, chịu ảnh hưởng mạnh nhất.

“Lạm phát có xu hướng giảm nhanh trong nửa đầu năm, tuy nhiên lạm phát cơ bản giảm chậm hơn. Các đối tác thương mại lớn tiếp tục duy trì mặt bằng lãi suất cao, ít nhất là trong phần còn lại của năm”, ông Thế Anh nói.

Theo Trưởng Khoa Kinh tế học, Đại học Kinh tế Quốc dân (NEU), cần khuyến khích đầu tư tư nhân thông qua việc tiếp tục hạ lãi suất cho vay (giảm chi phí vốn; tăng khả năng tiếp cận vốn trên thị trường chứng khoán; kích thích được tiêu dùng nhờ sự hồi phục của thị trường tài sản; sử dụng tín dụng thuế đầu tư (Investment Tax Credit) ngắn hạn.

“Tuy nhiên, cần kiểm soát tăng trưởng cung tiền quanh 10% và tránh nôn nóng hạ lãi suất chính sách dồn dập. Ưu tiên sử dụng các biện pháp tài khóa”, ông Thế Anh nhấn mạnh.

Cũng theo ông Thế Anh, có “dư địa” để thực hiện kích thích tài khóa như nợ công giảm và ổn định ở mức vừa phải; nghĩa vụ trả nợ trực tiếp so với ngân sách nhà nước không quá căng thẳng’ nợ công nước ngoài thấp (14,7% năm 2021 và 12% năm 2023). Lãi suất vay nợ trái phiếu Chính phủ thấp và kỳ hạn trái phiếu Chính phủ lành mạnh.

Bên cạnh đó, tiếp tục đẩy nhanh đầu tư công, tập trung vào các dự án cơ sở hạ tầng, tránh dàn trải. Phát triển nhà ở xã hội đáp ứng nhu cầu thực. Bổ sung/xây dựng mới các trường học công đáp ứng đủ nhu cầu xã hội. Đây là chính sách lâu dài, hạn chế tác động phụ.

Đồng thời, kích thích tiêu dùng thông qua trợ cấp an sinh xã hội cho hộ nghèo và người bị mất việc. Nâng mức thu nhập chịu thuế/giảm thuế suất thu nhập cá nhân. Giảm VAT hàng thiết yếu nội địa.

“Ưu điểm của chính sách này là đạt hai mục tiêu an sinh xã hội và kích cầu. Hiệu quả do xu hướng tiêu dùng biên cao. Vừa là chính sách tạm thời vừa lâu dài, ít tác động phụ”, ông Thế Anh nói.

 Đức Minh

 

Link: https://thuongtruong.com.vn/news/pgsts-pham-the-anh-tranh-non-nong-ha-lai-suat-chinh-sach-don-dap-108138.html

Đang tuyển sinh