Diendandoanhnghiep.vn: GS.TS. Phạm Hồng Chương: Triển vọng kinh tế Việt Nam 2022: Tăng trưởng có thể đạt mục tiêu, chỉ lo lạm phát
21/04/2022 2022-04-21 13:58Diendandoanhnghiep.vn: GS.TS. Phạm Hồng Chương: Triển vọng kinh tế Việt Nam 2022: Tăng trưởng có thể đạt mục tiêu, chỉ lo lạm phát
Diendandoanhnghiep.vn: GS.TS. Phạm Hồng Chương: Triển vọng kinh tế Việt Nam 2022: Tăng trưởng có thể đạt mục tiêu, chỉ lo lạm phát
DIENDANDOANHNGHIEP.VN: Với tình hình dịch bệnh mới và được thúc đẩy bởi gói hỗ trợ phục hồi kinh tế mới, tăng trưởng kinh tế Việt Nam có thể đạt được mục tiêu 6,5% như kỳ vọng.
GS.TS. Phạm Hồng Chương, Hiệu trưởng của Trường Đại học Kinh tế Quốc dân chia sẻ với DĐDN trước thềm Hội thảo Khoa học Quốc gia: Kinh tế Việt Nam năm 2021 và triển vọng năm 2022: “Ổn định kinh tế vĩ mô và lành mạnh tài chính trong bối cảnh đại dịch COVID-19 & Công bố ấn phẩm Đánh giá Kinh tế Việt Nam thường niên 2021”, sẽ diễn ra vào ngày 25/4.
GS.TS. Phạm Hồng Chương, Hiệu trưởng của Trường Đại học Kinh tế Quốc dân.
GS.TS. Phạm Hồng Chương đánh giá, động lực tăng trưởng kinh tế
vẫn đến từ đầu tầu khu vực kinh tế đối ngoại, đóng góp lớn đến sản xuất
sản phẩm chế biến chế tạo và xuất khẩu. Bên cạnh đó, bù đắp cho đầu tư
khu vực tư nhân còn khó khăn, chưa thể hồi phục nhanh do tác động của
đại dịch, đầu tư công được tăng cường sẽ đóng góp lớn vào tăng trưởng của năm 2022.
Những
chính sách đảm bảo an sinh xã hội và hỗ trợ việc làm được thực hiện
giúp tăng các mức chi tiêu, đóng góp lớn vào quy mô nền kinh tế. Về phía
sản xuất, ngành dịch vụ có cơ hội hồi phục mạnh mẽ trong năm 2022 với
sự mở cửa trở lại của nền kinh tế. Đây là ngành có vai trò lớn trong
đóng góp vào tăng trưởng trong những năm gần đây.
Bên
cạnh đó, chất lượng tăng trưởng năm 2022 cũng được dự báo ở mức cao
hơn, thông qua dự báo tăng trưởng TFP và năng suất lao động được cải
thiện.
-Tuy nhiên, ông cũng
có chia sẻ rằng, tăng trưởng kinh tế năm 2022 cũng đứng trước nhiều
thách thức lớn. Cụ thể những khó khăn đó như thế nào, thưa ông?
Thứ nhất,
đại dịch COVID-còn diễn biến phức tạp, bất ổn chính trị thế giới leo
thang cùng giá dầu tăng mạnh có thể khiến con đường hồi phục toàn cầu và
của các nước bạn hàng lớn của Việt Nam như Mỹ, EU, Trung Quốc bị đe
dọa; theo đó ảnh hưởng đến thương mại và đầu tư tại Việt Nam.
Thứ hai, việc Chính phủ và NHTW của các quốc gia lớn, đặc biệt là Mỹ,có động thái thắt chặt tiền tệ do lo ngại lạm phát
là có tác động đến kinh tế, tài chính thế giới nói chung và Việt Nam
nói riêng. Đối với Việt Nam, dư địa các chính sách tài khóa và tiền tệ
để hỗ trợ hồi phục kinh tế sẽ bị thu hẹp hơn.
Thứ ba,
một số điều chỉnh đang diễn ra ở hệ thống tài chính tiền tệ như tăng
trưởng “nóng” trên thị trường bất động sản và chứng khoán; dòng vốn tín
dụng chưa đi vào khu vực sản xuất và đổ vào thị trường tài sản gây rủi
ro tài chính; hệ thống ngân hàng còn nhiều chỉ tiêu chưa lành mạnh như
chất lượng tín dụng giảm và nợ xấu gia tăng; sức ép lạm phát gia
tăng…. Những vấn đề này có thể tác động ngược trở lại đến khu vực kinh
tế thực, ảnh hưởng đến tốc độ và chất lượng tăng trưởng.
-Còn với mục tiêu lạm phát dưới 4% của Chính phủ sẽ như thế nào, thưa ông?
Trong
khi tăng trưởng có khả năng cao đạt được mục tiêu 6,5% thì mục tiêu lạm
phát dưới 4% của Chính phủ là khó có khả năng đạt được. Xu hướng tăng
giá hàng hóa cơ bản và giá xăng dầu….cộng thêm chiến tranh Nga –
Ukraine leo thang, đã khiến giá năng lượng tăng cao kỷ lục, theo đó ảnh
hưởng lớn đến chi phí sản xuất trong nước, gây sức ép lớn đến lạm phát
năm 2022.
Bên cạnh đó, lạm phát toàn
cầu đang gia tăng cũng ảnh hưởng đến áp lực lạm phát trong nước. Không
những thế, tỷ lệ cung tiền M2/GDP và tín dụng/GDP của Việt Nam đang ở
mức rất cao so với các nước trong khu vực, trong khi tăng trưởng kinh tế
đang dưới sâu so với mức sản lượng tiềm năng, làm gia tăng rủi ro lạm
phát.
Diễn biến giá dầu tăng cao
trong những tháng đầu năm 2022 đặt ra thêm những thách thức rất lớn đến
kinh tế. Cho đến ngày 11/3/2022, trung bình giá xăng dầu tăng 45,2% so
năm năm 2021, và nếu theo Dự thảo giảm mức thuế bảo vệ môi trường đối
với xăng dầu thì giá xăng dầu tăng 41%.
Sử
dụng bảng cân đối liên ngành I/O, nếu giá xăng dầu tăng 45,2%, ảnh
hưởng trực tiếp tức thời đến chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tăng 0,6%, chỉ
số giá sản xuất (PPI) tăng khoảng 2,34%, và ở chu kỳ sản xuất tiếp theo,
GDP có thể giảm khoảng 8% so với kịch bản giá xăng dầu ổn định.
Trong
trường hợp Dự thảo được thực hiện, giá xăng dầu tăng so với bình quân
năm 2021 khoảng 41%, ảnh hưởng trực tiếp đến giá tiêu dùng tăng 0,5%;
chỉ số giá sản xuất tăng 2,2%; GDP ở chu kỳ sản xuất tiếp theo giảm 7,3%
so với kịch bản giá xăng dầu ổn định.
Những
chính sách đảm bảo an sinh xã hội và hỗ trợ việc làm được thực hiện
giúp tăng các mức chi tiêu, đóng góp lớn vào quy mô nền kinh tế.
– Để vượt qua áp lực từ những diễn biến bất thường của nền kinh tế thế giới, ông có đề xuất giải pháp gì trong thời gian tới?
Chính phủ cần quán triệt ba quan điểm cơ bản sau khi đưa ra các chính sách.
Một là,
các chính sách cần tập trung hướng đến làm thế nào để hồi phục và phát
triển nền kinh tế một cách bền vững trong bối cảnh “sống chung với
COVID-19”;.
Hai là, để đảm
bảo cân bằng bên trong của nền kinh tế thì sản lượng cần được duy trì
gần mức tiềm năng; cần thực hiện các chính sách tài khóa và tiền tệ
hướng về tổng cầu trong ngắn hạn để đẩy nền kinh tế quay trở lại vị trí
tiềm năng. Tuy nhiên, chính sách cần được nới lỏng một cách thận trọng
để tránh gây rủi ro bất ổn kinh tế vĩ mô.
Ba là,
dư địa chính sách dần thu hẹp, các chính sách cần hướng nguồn lực ưu
tiên đến khu vực doanh nghiệp, tạo điều kiện cho khu vực doanh nghiệp
phục hồi và phát triển trong đại dịch; đặc biệt là những doanh nghiệp có
ảnh hưởng lan tỏa lớn đến nền kinh tế.
Về
chính sách tài khóa, phải được coi là chính sách hỗ trợ quan trọng
nhất. Theo đó, Chính phủ có thể gia tăng hỗ trợ tài khóa mạnh mẽ hơn
(lên khoảng 5-6% GDP) trong bối cảnh đặc biệt hiện nay để hỗ trợ nền
kinh tế trong ít nhất 2-3 năm tới đây. Như vậy, cần theo đuổi chính sách
tài khoá nghịch chu kỳ trong giai đoạn 2022 – 2023: mở rộng chi tiêu,
chấp nhận bội chi cao, ưu tiên cho tăng trưởng.
Tuy
nhiên, chính sách này chỉ hiệu quả khi chi tiêu đầu tư công hiệu quả.
Hiệu quả chi tiêu công sẽ là nhân tố quyết định bền vững nợ công. Với lý
do này, các khuyến nghị chính sách tập trung vào cải cách thể chế đầu
tư công, nâng cao hiệu quả đầu tư công.
Liên
quan đến chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, cần hỗ trợ đúng đối tượng và
thiết thực hơn. Chính phủ cần thu hẹp đối tượng thụ hưởng các chính sách
hỗ trợ này dựa trên mức độ chịu tác động bởi đại dịch.
Chất lượng tăng trưởng năm 2022 cũng được dự báo ở mức cao hơn.
Mở
rộng hỗ trợ tài khóa cần hướng đến khu vực doanh nghiệp mạnh mẽ hơn,
tập trung vào hai khó khăn lớn nhất với cộng đồng doanh nghiệp hiện nay
là đứt gãy chuỗi cung ứng và chi phí sản xuất gia tăng. Vì vậy, cần thay
thế các loại thuế dựa trên thu nhập và ưu tiên để giảm chi phí như giảm
thuế GTGT ở mức cao hơn và bao phủ nhiều đối tương hơn. Bên cạnh đó,
các giải pháp hỗ trợ về chi phí cho doanh nghiệp cần được tiếp tục đẩy
mạnh.
Liên quan đến an sinh xã hội,
các gói an sinh xã hội cho các đối tượng bị ảnh hưởng cần được tiếp tục
duy trì, đối tượng thụ hưởng nên được mở rộng và chú trọng tới nhóm lao
động thuộc khu vực phi chính thức. Cần đơn giản hóa và cụ thể hóa các
tiêu chí xác định đối tượng được hưởng trợ cấp.
Liên
quan đến chi tiêu đầu tư công, cần tiếp tục đẩy nhanh giải ngân vốn đầu
tư công. Đi kèm với thúc đẩy đầu tư công, cũng cần xây dựng cơ chế đặc
biệt để giám sát việc thực hiện giải ngân vốn đầu tư công trong giai
đoạn hiện nay, để đảm bảo việc giải ngân nhanh chóng nhưng phải có hiệu
quả cao, tránh lãng phí, thất thoát, tham nhũng.
Đối
với chính sách tiền tệ, trong bối cảnh hiện nay, dư địa chính sách tiền
tệ bị thu hẹp mạnh hơn, các công cụ lãi suất nói riêng và chính sách
tiền tệ nói chung ít có tác dụng trong khi lại dẫn đến rủi ro lạm phát
và bất ổn vĩ mô. Chính sách lãi suất nên tập trung vào việc cắt giảm lãi
suất cho vay hơn là lãi suất huy động. Chính sách hỗ trợ tín dụng nên
hướng đến cả các doanh nghiệp ít bị ảnh hưởng do đại dịch nhưng có độ
lan tỏa lớn, có tác động tích cực đến các ngành, các lĩnh vực khác để
thúc đẩy sản xuất của cả thị trường.
Chú
trọng vào việc hướng chuyển các dòng vốn tín dụng vào các khu vực sản
xuất và nền kinh tế thức, kiểm soát chặt chẽ tăng trưởng “nóng” ở các
thị trường tài sản.
-Trân trọng cảm ơn ông!
NGUYỄN VIỆT thực hiện